Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

Công nghệ sản xuất xi măng của Nhật Bản

Công ty thiết kế Taiheiyo là một trong những công ty nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí cho công nghiệp xi măng của Nhật Bản. Đáp ứng cho những yêu cầu thực tế ngày càng cao trong công nghệ sản xuất xi măng, ông ty thiết kế Taiheiyo đã nghiên cứu thiết kế một số thiết bị công nghệ mới như: Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất; hệ thống nhánh trích khí Clo mới nhất; Máy phân li khí hiệu suất cao O-Sepa. Trong bài này giới thiệu sự phát triển hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt 100% nhiên liệu khó cháy và Máy phân li khí hiệu suất cao O –Sepa.
Do các điều kiện kinh tế có và giá bán xi măng thấp trên thị trường thế giới, nên có rất nhiều cố gắng để làm sao giảm giá thành xi măng sản xuất. Một trong những biện pháp này là giảm chi phí nhiên liệu sử dụng. Việc này đã thúc đẩy công ty thiết kế Taiheiyo phát triển hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường), để có thể sử dụng 100% nhiên liệu có chất lượng kém và giá thấp như than antraxit, FOC và DOC (sản phẩm phụ từ chế biến dầu mỏ). Đốt bằng các nhiên liệu khó cháy sẽ rẻ hơn và chúng có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời các nhiên liệu này có chất bốc cháy thấp và có đặc tính tốc độ cháy chậm.
Hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường) này đem thuận lợi cho việc tận dụng các loại nhiên liệu có chất lượng thấp và giá rẻ, vì vậy cho phép làm giảm giá nhiên liệu cũng như chi phí sản xuất xi măng. Thành công này không những làm giảm giá nhiên liệu để sản xuất xi măng mà còn giúp hướng tới giữ gìn nguồn nhiên liệu và kéo dài tuổi thọ các mỏ nhiên liệu tự nhiên (than). Những nhiên liệu chất lượng thấp, giá rẻ cũng nằm trong những loại nhiên liệu khó cháy như than antraxit (nguồn tại địa phương), FOC (than cốc dầu lỏng) và DOC (than cốc dầu lưu) từ các sản phẩm phụ của công nghiệp lọc dầu mỏ. Các nhiên liệu khó cháy nêu trên có giá rẻ và có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời chúng có chất bốc thấp và với đặc điểm tốc độ cháy chậm. Dễ dàng đốt cháy các nhiên liệu khó cháy trong lò quay vì thời gian lưu dài và nhiệt độ cao có thể đạt được tại dôn đốt đầu tiên. Nhưng những nhiên liệu này lại khó đốt trong hệ thống trao đổi nhiệt do khó giữ thời gian lưu dài và nhiệt độ cao tại dôn đốt đầu tiên.
Một đặc điểm đặc trưng của than bitum thông thường cũng được giới thiệu để dễ dàng so sánh. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có hàm lượng chất bốc thấp so với than bitum thông thường. Mặt khác than cốc dầu FOC và DOC lại có hàm lượng sunfua cao nếu so với than antraxit và than bitum thông thường. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có nhiệt trị cao hơn nhiều, nhưng tốc độ cháy chậm, vì vậy đòi hỏi nhiệt độ bốc cháy cao hơn ngay từ đầu so với than bình thường.
Công nghệ nguyên khai đốt cháy 2 giai đoạn trong RSP:
Nhìn chung mặc dầu khó khống chế nhiệt độ tâm ngọn lửa trong buồng tiền nung, chúng ta đã không gặp phải khó khăn như vậy trong việc giữ nhiệt độ cao vì hệ thống buồng tiền nung RSP là hệ thống có hai giai đoạn cháy. Gió 3 được cấp vào buồng tiền nung RSP bằng 2 con đường khác nhau. Nếu cần thiết độ cao hơn trong RSP, có thể đơn giản mở van của của vòi đốt Swirl (SB). Nhờ tăng khối lượng khí 3 qua van SB thì việc đốt cháy ban đầu (đốt cháy các chất bốc) của nhiên liệu sẽ được tăng cường do có hàm lượng O2 cao hơn, dẫn đến đạt nhiệt độ cao trong buồng RSP. Và việc đốt cháy ban đầu được thực hiện không có hỗn hợp bột nhiên liệu từ những tầng xiclôn dưới cùng. Có sự liên kết rất rõ giữa “góc mở của van SB” và “nhiệt độ tâm trong RSP” được biểu diễn bằng giản đồ. Giản đồ này đã được thực hiện qua việc vận hành thực tế trong suốt giai đoạn đầu của sự phát triển RSP trong mấy năm qua. Từ giản đồ này thấy rằng có thể dễ dàng đạt được nhiệt độ tâm ngọn lửa cao trong RSP nếu tăng độ mở của van SP cũng như tăng nhiệt độ gió 3 từ máy làm lạnh clinker.
Công nghệ buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khô cháy:
Chú ý tới các đặc tính cơ bản cho đốt than antraxit đơn như “bắt lửa khó và tốc độ cháy chậm” và công nghệ đốt 2 giai đoạn của thiết kế nguyên khai RSP, các nguyên tắc yêu cầu hiết kế về buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khó cháy bao gồm:
- Tăng thời gian lưu dôn tiền nung (để đạt được cháy hoàn toàn).
- Có khoảng không gian từ đầu và cuối vòi đốt tới đầu vào của bột liệu (để đạt được đốt cháy hoàn toàn).
- Phân phối bột liệu vào buồng tiền nung trong 2 vị trí khác nhau (để tối ưu hoá điều kiện đốt trong buồng tiền nung). Có sự khác nhau giữa RSP truyền thống và buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn. Khi so sánh với RSP truyền thống, buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn có một ống dẫn kéo dài lên cho đầu ra của buồng trộn tới đầu vào của xiclôn tầng dưới cùng và phần kéo dài phía dưới của buồng tiền nung. Nhiệt độ của dôn nung trong buồng tiền nung cao hơn so với điều kiện chuẩn trong RSP truyền thống. Chính là do buồng tiền nung đã được vận hành không có sự phân phối bột liệu từ xiclôn tầng gần dưới cùng và cấp cho chỉ phần dưới của buồng tiền nung như của RSP truyền thống. Các số liệu khác giống như RSP truyền thống. Do sử dụng thành công các nhiên liệu khó cháy đã giúp cho giảm chi phí sản xuất cũng như hỗ trợ chủ trương bảo tồn các mỏ nhiên liệu than tự nhiên. Với việc thành công đốt cháy 100% than antraxit đã mở đường cho việc sử dụng công nghệ đốt cháy 100% than cốc dầu. Mới đây, nhánh trích khí Clo đơn giản đã cải tiến và được áp dụng, khi có yêu cầu để hệ thống này khắc phục sự dư thừa khí Sunfua, Clo,,,Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất đảm bảo vận hành liên tục và ổn định khi chỉ dùng 100% các loại hình nhiên liệu khó đốt cháy bởi các đặc điểm vượt trội của hệ thống RSP mới nhất này.
Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa
Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa được phát triển bởi Công ty xi măng Taiheiyo và được sử dụng thành công trong các nhà máy xi măng là một thiết bị phân li khí lớn, hiệu suất cao có thể xử lý một lượng lớn bột liệu trong một thiết bị gọn, cho phép giảm giá đáng kể chi phí ban đầu và chi phí vận hành trong sản xuất xi măng. Nó còn cho phép phân li chính xác các sản phẩm mịn với nhiệt độ thấp hơn so với thiết bị phân li khí truyền thống. Điều này cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí thấp đáng kể.
Thiết bị phân li khí truyền thống thường sử dụng trong công nghiệp xi măng không có một lượng khí đồng nhất để phân li và cũng không có điều kiện thay đổi đồng bộ các vật liệu trong buồng phân li. Điều này làm cho hiệu quả phân li trong các thiết bị này rất kém. Và kích thước các thiết bị nghiền và phân li trở nên lớn hơn, người ta hy vọng rằng các thiết bị sản xuất đại trà có hiệu quả cao với giá thành ban đầu giảm và cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí vận hành giảm giá đáng kể.
Để giải quyết các vấn đề này, Công ty xi măng Taiheiyo đã phát triển thiết bị phân li khí O-Sepa và hệ thống áp dụng chúng, cho phép duy trì hiệu quả phân li cao nhất tương ứng với kích thước của nó. Nó có một cơ chế độc đáo đảm bảo 2 bước xoáy dòng khí trong buồng phân li, điều này đảm bảo sự phân li chính xác trong một thể tích rất gọn, thay vì sự vận hành trong các điều kiện khí rắn đậm đặc cao.
Công nghệ O-Sepa có các đặc tính sau:
- Việc ngắt rất chính xác không thể có được trong máy phân li truyền thống thì nay có thể thực hiện được bằng một cơ cấu phân li duy nhất.
- Trong trường hợp sử dụng cho xi măng, sư phân bố cỡ hạt được cải thiện làm cho cường độ cao hơn ngay cả khi có bề mặt diện tích riêng thấp.
- Hiệu quả phân li cao dẫn tới hiệu quả nghiền cao và tiêu hao năng lượng thấp.
- Cỡ hạt mịn rất dễ dàng lựa chọn bằng cách đơn giản điều chỉnh vận tốc quay, như vậy rẩt phù hợp với một hệ thống nghiền nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Một khối lượng lớn khí lạnh được sử dụng cho phân ly làm cho nhiệt độ sản phẩm thấp hơn.
- Khi chứa nhiều bụi từ hệ thống nghiền được sử dụng để phân li làm cho hệ thống đơn giản hơn.
- Hệ thống O-Sepa gọn hơn so với phân li truyền thống. O-Sepa rất lý tưởng để phân li các vật liệu như tất cả các loại xi măng, nguyên liệu ximăng, đá vôi, đá sét, xỉ, than đá, trobay và cốc.
Khi sử dụng thiết bị phân li O-Sepa sản xuất các sản phẩm xi măng sẽ đạt:
1. Hiệu suất phân li tuyệt vời, công suất máy nghiền có thể tăng thêm 5-10%, như vậy giảm tiêu hao năng lượng.
2. Do khí chứa bụi cao được sử dụng như là khí phân li, một khối lượng khí lớn được thoát ra từ máy nghiền và như vậy nhiệt độ của xi măng xuống thấp.
3. Một khối lượng vật liệu lớn có thể được xử lý trong một thiết bị rất gọn.
4. Sự phân bố cỡ hạt xi măng được cải thiện, góp phần làm tăng mác xi măng, do vậy diện tích bề mặt riêng của sản phẩm mịn có thể giảm xuống (5-10%).
5. Độ mịn của sản phẩm có thể dễ dàng điều chỉnh trong một dải rộng (từ 2.000đến 7.000cm2/g) bằng cách đơn giản thay đổi vận tốc quay
Nguồn  Hiệp hội Xi măng Việt Nam.
http://gctf.vn/cong-nghe-san-xuat-xi-mang-cua-nhat-ban/

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Đổi mới công nghệ ở các làng nghề Hà Nội

Đổi mới là yêu cầu tất yếu

Lâu nay, chúng ta vẫn dùng cái tăm để nói những chuyện nhỏ không đáng bàn. Nhưng khi Việt Nam dùng USD để nhập tăm tre thì nó không còn là chuyện nhỏ nữa. Một đất nước nhiều làng nghề, người nông dân vẫn cần việc làm thêm để tăng thu nhập, một đất nước tự hào là đất nước của tăm tre mà hàng nghìn tấn tăm tre được nhập qua các cửa khẩu là một chuyện đáng phải suy nghĩ. Việt Nam không thiếu nguyên liệu, giá nhân công Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất thế giới. Nhưng tăm ngoại vẫn... rẻ hơn. Nguyên nhân là việc sản xuất tăm của nước ngoài được hỗ trợ bởi máy móc kỹ thuật nên "nhanh, nhiều, rẻ" hơn tăm tre Việt Nam.

Với 1.350 làng nghề, Hà Nội đứng đầu danh sách làng nghề cả nước. Năm 2010, các làng nghề thu hút 170.600 hộ gia đình tham gia, giá trị sản xuất đạt hơn 8.600 tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng như mặt hàng tăm tre, nhiều mặt hàng của các làng nghề Hà Nội chịu sự cạnh tranh gay gắt của các mặt hàng nước ngoài cùng chủng loại, trên cả "sân nhà" lẫn trong xuất khẩu. Lâu nay chúng ta mới nói đến đổi mới công nghệ để tránh ô nhiễm môi trường, để bảo đảm vệ sinh thực phẩm, tuy nhiên, còn vấn đề quan trọng khác là đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, để thích nghi với những yêu cầu mới của xã hội. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các làng nghề trên địa bàn Thủ đô.

Một trong những thí dụ dễ thấy về sự cần thiết trong đổi mới là ở làng nghề mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ). Vài năm trở lại đây, nghề mây tre đan ở Phú Vinh bị thu hẹp, thị trường xuất khẩu gặp khó khăn. Theo nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, Chủ tịch Hội Nghệ nhân Phú Vinh, một trong những nguyên nhân là do mây tre đan Phú Vinh đang gặp sự cạnh tranh quyết liệt từ các sản phẩm cùng chủng loại của Trung Quốc, Thái-lan, In-đô-nê-xi-a... Đây cũng là những nước có truyền thống về hàng thủ công mỹ nghệ. Theo ông Trung, chúng ta đang yếu thế về chất lượng sản phẩm cũng như giá thành. Nếu không có sự thay đổi từ chính các công đoạn sản xuất, từ giá thành sản phẩm thì sản phẩm của chúng ta khó cạnh tranh nổi. Qua khảo sát cách làm ăn của Trung Quốc, ông Trung cho biết, mặc dù là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nhưng hiện nay, các nhà sản xuất mây tre nước này đã áp dụng công nghệ vào khá nhiều công đoạn, nhất là khâu không đòi hỏi sự tinh xảo của bàn tay người thợ như pha chế, xử lý nguyên liệu, do đó tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh. Trong khi đó, phần lớn các cơ sở sản xuất ở Phú Nghĩa vẫn chưa quan tâm việc đổi mới công nghệ trong một số công đoạn sản xuất. Nếu không có sự đầu tư, việc "hụt hơi" trong cạnh tranh là điều khó tránh.

 Bắt đầu từ đâu?

Chúng ta từng có những bài học về thành công trong đổi mới công nghệ làng nghề. Một điển hình là ở làng nghề Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội). Hiện tại, hầu hết các cơ sở sản xuất gốm Bát Tràng đã chuyển từ lò than sang lò ga. Nhiều cơ sở chỉ giữ lò than để phục vụ nhu cầu tham quan của du khách. Đổi mới công nghệ khiến cho môi trường làng nghề giảm ô nhiễm. Bên cạnh đó, dùng lò ga khiến người thợ hoàn toàn chủ động về điều chỉnh nhiệt độ, qua đó, cho ra đời những sản phẩm ưng ý hơn, ít sản phẩm bị lỗi, nâng cao hiệu suất. Tuy nhiên, không phải tất cả những đổi mới ở các làng nghề đều thành công.

Làng nghề Hạ Thái (huyện Thường Tín, Hà Nội) nổi tiếng với các sản phẩm sơn mài. Sơn mài Hạ Thái được xuất đi đến nhiều thị trường lớn trên thế giới, từ các nước châu Âu cho đến Hoa Kỳ, Nhật Bản. Trước kia, sản phẩm sơn mài Hạ Thái dùng sơn ta. Tuy nhiên, nhược điểm của việc sử dụng sơn ta là tốn nhiều thời gian sản xuất. Trong khi đó, khi thực hiện các hợp đồng với đối tác nước ngoài, vấn đề thời gian giao các lô hàng được kiểm soát rất gắt gao. Người Hạ Thái nhanh chóng đổi mới bằng việc sử dụng sơn Nhật. Việc dùng sơn Nhật cho sản phẩm đem lại hiệu quả tức thì: Sản phẩm nhanh khô, dễ xử lý và có giá thành thấp hơn ba đến bốn lần so sản phẩm làm bằng sơn ta. Vì thế, mặt hàng sơn mài Hạ Thái làm từ sơn Nhật bán khá chạy. Nhưng đó mới là một nửa của vấn đề. Sản phẩm sơn mài làm từ sơn ta là một đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam. Độ bền của sản phẩm này lên tới vài trăm năm. "Đổi mới" bằng việc dùng sơn Nhật đem lại cái lợi trước mắt. Song về lâu dài, nguy cơ mai một nghề truyền thống là điều hiện hữu. Chính nghệ nhân Đỗ Trọng Tuất - một nghệ nhân cao niên của làng Hạ Thái thừa nhận là làng nghề ngày càng ít người thợ khéo tay. Nếu mải chạy theo vấn đề trước mắt, nghề sơn mài truyền thống có thể biến mất hoàn toàn.

Một vấn đề nan giải không kém trong đổi mới là nguồn vốn. Những máy móc sơ chế nguyên liệu mây tre đan như ở Phú Vinh có giá thành lên đến hàng trăm triệu đồng. Trong khi đó, phần đông các hộ gia đình làm nghề mây tre đan đều là các hộ sản xuất nhỏ lẻ, khả năng đầu tư vốn hạn chế. Không những thế, việc mua các loại máy móc phục vụ cho đổi mới công nghệ làng nghề không dễ. Nhận thấy nghề mây tre đan có thể sử dụng máy móc vào nhiều công đoạn không đòi hỏi sự tinh tế của bàn tay con người, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung là người tiên phong trong đổi mới công nghệ. Nhưng để đổi mới công nghệ cho cơ sở sản xuất của mình, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung phải nhập khẩu máy từ Trung Quốc. Như thế, để làng nghề phát triển, chúng ta vẫn còn thiếu một mảng quan trọng trong công nghiệp, đó là sản xuất máy móc phục vụ làng nghề.

Cần những giải pháp cụ thể
Hà Nội đã soạn dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, có vấn đề đổi mới công nghệ làng nghề, nhưng vấn đề này được đề cập rất sơ lược. Những giải pháp được xem là quan trọng nhất trong dự thảo Quy hoạch này mới chỉ dừng lại ở mức khuyến khích các hộ sản xuất áp dụng công nghệ mới, cơ quan chức năng của thành phố hỗ trợ nghiên cứu và tuyên truyền hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... Nếu chỉ làm như vậy thì không thể giải quyết những vấn đề bức xúc nêu trên ở các làng nghề. Hiện nay, thành phố đã phân nhóm những làng nghề như: làng nghề thêu ren; làng nghề mây - tre - đan, tăm hương, làm lồng chim; làng nghề cơ kim khí... Việc cần thiết là phải đánh giá thực trạng những nhóm ngành nghề nào có thể đổi mới công nghệ thay cho lao động thủ công; những công đoạn cụ thể nào cần đổi mới, từ đó mới đưa ra những biện pháp thiết thực để hỗ trợ người nông dân. Đã đến lúc, chúng ta cần xây dựng một nền công nghiệp hỗ trợ cho các làng nghề ở khu vực nông thôn, có như vậy các làng nghề, nhất là làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới có thể phát triển bền vững, giúp người nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Theo Nhandan.

Đổi mới công nghệ - con đường ngắn nhất dẫn đến thành công của doanh nghiệp

 Trong môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, hiện nay, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững. Thực tế này đang đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu bức thiết về đổi mới công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường…

 Bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu không có những hoạt động nhằm đổi mới công nghệ thì chắc chắn hệ thống công nghệ, dây chuyền sản xuất, máy móc, trang thiết bị… sẽ trở nên lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến bị đào thải, làm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bị đe doạ. Đổi mới công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được nâng lên đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ tạo được ưu thế vững vàng trên thị trường cạnh tranh. Hà Tĩnh như một công trường lớn. Hầu như ngày nào tỉnh nhà cũng được đầu tư, nâng cấp để từng bước khẳng định mình, vươn lên trở thành một trong những trung tâm công nghiệp hiện đại và phát triển. Hàng nghìn dự án lớn, nhỏ đã được triển khai, ghi dấu là những dự án, công trình trọng điểm như: KTT Vũng Áng (Kỳ Anh); dự án Mỏ sắt Thạch Khê; KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo (Hương Sơn); dự án Ngàn Trươi- Cẩm Trang… Theo đó, các nhà sản xuất cũng không ngừng thay đổi chiến lược hoạt động, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, ưu tiên nhất là vấn đề về đổi mới công nghệ, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng gần 2.000 doanh nghiệp lớn, nhỏ thuộc các lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, cái khó của các doanh nghiệp (cả nhà nước lẫn tư nhân) vẫn là chưa chủ động huy động được nguồn vốn từ các kênh khác nhau để đầu tư cho khoa học và công nghệ mà lệ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước. Nhìn chung doanh nghiệp, đặc biệt là DN vừa và nhỏ do yếu về năng lực tài chính nên sử dụng công nghệ lạc hậu; máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ cũ, mang tính chắp vá, không đồng bộ cộng với tay nghề công nhân; số doanh nghiệp tạo ra sản phẩm xuất khẩu trên địa bàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa thấy được vai trò của đổi mới và cải tiến công nghệ đối với sản xuất.Mặt khác, lực lượng lao động trong doanh nghiệp có trình độ công nghệ còn ở mức trung bình, đạt khoảng 32%, còn lại phần lớn là lao động phổ thông. Có những ông chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo có hệ thống về những kiến thức quản lý kinh tế, tin học; trình độ tay nghề của công nhân lao động còn ở mức thấp. Đó là nguyên nhân khiến hiệu suất lao động của rất nhiều doanh nghiệp tuy có tăng trưởng nhưng còn thấp. Như là một “đòn bẩy” giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thời gian qua, UBND tỉnh đã có nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ việc thực hiện đổi mới công nghệ. Cùng với việc ưu tiên bố trí ngân sách, tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tạo điều kiện để các DN từng bước đổi mới, nâng cao trình độ; không ngừng du nhập những công nghệ tiên tiến trong và ngoài nước áp dụng vào sản xuất. Nhờ thực hiện chính sách này, ngành KHCN đã hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới có hiệu quả một số công nghệ như: sản xuất hạt nhựa đa chủng loại, công nghệ sản xuất phôi thép đen, lưới B40 và dây thép gai, công nghệ composite sản xuất các vật liệu mới, công nghệ sản xuất gạch bằng lò đứng liên tục,....Bên cạnh đó, trong khuôn khổ chương trình hợp tác KH&CN, nhiều công nghệ mới được du nhập như: công nghệ sản xuất hoa phong lan, công nghệ chăn nuôi lợn siêu nạc, công nghệ nhân giống bò từ Thái Lan, công nghệ sản xuất ống betong, sản xuất gạch không nung. Gắn liền đó là việc tham gia các hội chợ công nghệ trong và ngoài nước, nhằm tạo điều kiện để các DN quảng bá sản phẩm của mình ra thị trường thế giới; hướng dẫn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá (đến tháng 9/2010 có 120 đối tượng SHTT được cấp bằng bảo hộ); xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 – 2000; xây dựng các chính sách nhằm phát triển xuất khẩu… Mặc dù số doanh nghiệp có khả năng đầu tư cải tiến, đổi mới công nghệ còn hạn chế nhưng có thể coi đây là những tín hiệu tích cực của các DN trong quá trình tìm đến những công nghệ mới, tiên tiến, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất. Và cũng là hướng đi cần thiết để các DN có thể vươn tới sự bền vững. Theo baohatinh

Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với giá thành phù hợp

Tóm tắt: Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, bộ mặt nông thôn cũng có nhiều đổi mới do có sự đóng góp của kinh tế các làng nghề. Bên cạnh thành tựu về kinh tế, làng nghề đã và đang gây ra các hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường.
Theo dự báo, ô nhiễm nước ở các làng nghề sẽ còn diễn biến phức tạp nếu không kịp thời và kiên quyết áp dụng các giải pháp quản lý và kỹ thuật. Bài báo này trình bày về một trong những giải pháp kỹ thuật xử lý ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến giấy, đó là "Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với giá thành phù hợp với mức thu nhập trung bình của người dân". Kết quả đưa ra hệ thống xử lý nước với hiệu suất tốt, dễ vận hành, bảo quản và có giá thành rất phù hợp với túi tiền của người lao động ở các làng nghề chế biến giấy.
I. Giới thiệu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, môi trường của không ít làng nghề suy thoái trầm trọng và tùy theo loại hình sản xuất mà môi trường ở các làng nghề chịu sự ô nhiễm khác nhau. Hiện na, việc xử lý ô nhiễm môi trường nói chung và xử lý ô nhiễm môi trường nước nói riêng đã và đang được rất nhiều các nhà khoa học quan trâm nhằm đưa ra giải pháp thích hợp xử lý ô nhiễm.
Trong các công đoạn của công nghệ tái chế giấy, nước thải công đoạn ngâm, tẩy, nghiền trong tái chế giấy chiếm khoảng 50% tổng lượng thải, chưa nhiều hóa chất như xút, nước giaven, phèn, nhựa thông, phẩm màu, xơ sợi. Nước thải thường chứa nhiều bột giấy, lượng cặn có thể lên tới 300 - 600 mg/l.
Theo các kết quả khảo sát cho thấy, nước thải sản xuất tại các làng nghề có COD, BOD5, SS vượt TCVN từ 1,5 - 15 lần.
Trong số các làng nghề tái chế giấy có làng nghề Dương Ổ và Phú Lâm ở Bắc Ninh là hai làng nghề có quy mô sản xuất lớn. Tổng khối lượng nước thải lên tới 3500 m3/ngày. Hàng ngày đã thải vào nguồn nước mặt khoảng 1.450 - 3000 kg COD và 3000 kg bột giấy.
Tại các làng nghề tái chế giấy này, công nhân và người lao động bị mắc các bệnh về hô hấp, bệnh ngoài da và thần kinh rất cao. Ví dụ như tại xã Phong Khê ( Bắc Ninh), tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp ngoài da, đường ruột có xu hướng tăng nhanh, nếu như năm 2001 mới chỉ có khoảng 200 người mắc bệnh thì năm 2004 đã có gần 400 người. Đây thực sự là hồi chuông báo động về sức khỏe người dân làng nghề.
Trước thực trạng như vậy, việc các nhà khoa học, các chuyên gia phải đi vào nghiên cứu các phương án kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân làng nghề chế biến giấy, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường là rất cần thiết. Nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn PGS. TS Trần Hồng Côn đã đề xuất và đưa ra được một hệ thống xử lý nước thải mini tại làng nghề chế biến giấy, với hiệu suất xử lý cao, giá cả vận hành và bảo dưỡng phải chăng dựa trên phương pháp sinh học.
II. Quy trình công nghệ
Các loại nước thải của làng nghề tương đối đa dạng. Đối với nước thải làng nghề chế biến giấy (chủ yếu là tái chế giấy để làm giấy vệ sinh), dòng dịch đen không nhiều trong dòng thải chung, nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn là PGS.TS Trần Hồng Côn đã đề xuất thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải mini của làng nghề giấy như sau:
Hình 1. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải mini của làng nghề gỗ và giấy.
Ở đây có thể chia thành 3 trường hợp khác nhau:
+ Trường hợp 1: Nước thải không có màu: Nước thải từ dây chuyền chế biến giấy chưa qua xử lý được đưa vào bể khuấy I tại đây ta cho vào chất để trung hòa kiềm là axit H2SO4 và một số chất xúc tác khác. Tại đây nhờ lực ly tâm và trọng lượng nên phần chất thải rắn được lắng xuống và tháo ra ngoài, phần nước được tràn qua bể keo tụ II. Tại bể II những chất rắn lơ lửng (SS) và chất hữu có dễ phân hủy BOD được keo tụ lại và phần nước được tràn sang bể lắng III. Tại bể lắng III bùn sơ sợi được tháo ra để tái sử dụng còn nước tháo ra ao, hồ đạt tiêu chuẩn B theo QCVN 14: 2008/BTNMT.
+ Trường hợp 2: Nước thải có màu thì tại bể I ta cho thêm cacbon hoạt tính để hấp phụ màu và một số phụ gia khác và quá trình tương tự như trên.
+ Trường hợp 3: Nước thải có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao) thì ta cần có thêm sơ đồ sau đây để tiếp tục xử lý sau khi ra khỏi bể III:
Hình 2: Sơ đồ xử lý nước thải bổ sung khi có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao)
Tại bể IV ta bổ sung vi chất và sục không khí, tại đây hàm lượng tinh bột sẽ bị xử lý sau đó nước tiếp tục được tràn vào bể V. Tại bể V bùn vi sinh lắng xuống dưới và được thải ra ngoài, một phần nước dưới đáy được bơm quay vòng về bể vi sinh hiếu khí IV. Nước sau bể V thải ra ngoài đạt tiêu chuẩn B.
Điều quan trọng là các vật liệu và thiết bị trên đây có thể xem là đơn giản và rẻ tiền nhất trong các phương án công nghệ xử lý nước thải ở dạng mini, người dân có thể tự làm được dưới sự hướng dẫn của nhóm chuyên gia. Mặt khác, nhưng thiết bị này có thể làm bánh xe để di chuyển cơ động khi thay đổi mặt bằng hoặc thay thế dễ dàng. Loại vật liệu để chế tạo các bể mini cơ động này có thể là thép CT3 theo nguyên tắc xếp chồng, hoặc có thể xây bể bằng gạch trong trường hợp diện tích mặt bằng lớn và hệ thống xử lý cố định. Đồng thời trong trường hợp muốn tiết kiệm chi phí để chế tạo có thể hợp khối các bể xử lý lại với nhau rất đơn giản mà lại đạt hiệu quả về mặt kinh tế.
Hiện nay, sáng kiến áp dụng hệ thống này cho việc xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt trong đề tài cấp Bộ mang tên "Nghiên cứu thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải, bụi và khí thải cho các làng nghề chế biến gỗ, giấy" do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm và dự kiến sẽ áp dụng xử lý cho các cơ sở chế biến giấy tại làng nghề Đào Xá (Bắc Ninh).
III. Kết luận
Tại các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa học. Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, người lao động thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt và hóa chất, nguy cơ tai nạn lao động cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm do chất thải sản xuất không được xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Sức khỏe người lao động và dân cư đang bị đe dọa do ô nhiễm môi trường. Bệnh tật phổ biến tại các làng nghề là viêm phế quản - phổi, dị ứng ngoài da, đau mắt, đau lưng, đau cột sống, đau bụng hội chứng dạ dày, phụ khoa ... Việc đưa ra quy trình công nghệ xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với quy mô nhỏ sẽ góp phần giúp giảm thiểu ô nhiễm tại đây, cải thiện một cách đáng kể chất lượng cuộc sống của người lao động. Việc lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng một hệ thống mini như thế này không phải quá khó đối với mỗi người dân bình thường. Ngoài ra chi phí đầu tư cho mỗi hệ thống không hề đắt, rất phù hợp với túi tiền của người dân mà hiệu suất xử lý không hề thấp. Trong tương lai gần, nếu hệ thống này được áp dụng một cách rộng rãi tại các làng nghề chế biến giấy sẽ góp một phần không nhỏ vào việc cải thiện chất lượng môi trường nước tại các làng nghề truyền thống này.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2008, "Môi trường làng nghề Việt Nam", Bộ Tài nguyên và Môi trường.
2. Đặng Kim Chi, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Lệ Minh, Làng nghề Việt Nam và Môi trường - NXB KHoa học và Kỹ thuật, 2005.
3. Trần Hồng Côn, Đồng Kim Loan, Công nghệ xử lý khí thải, NXB Khoa học kỹ thuật, 2009.
4. Vũ Thị Thanh Hương, Nghiên cứu các biện pháp cải thiện môi trường cho làng nghề tái chế giấy, Dự án hợp tác với Cộng hòa Séc và Canada, 2007...

Tác giả: TS. Vũ Chí Cường - KS. Trần Ngọc Hương. Viện Bơm và Thiết bị Thủy lợi. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí "Tài nguyên nước"

Xử lý nước thải làng nghề chế biến lương thực bằng phương pháp lọc sinh học ngập nước

Các làng nghề thủ công truyền thống là nét đặt trưng của nhiều vùng nông thôn Việt Nam. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, nhiều ngành nghề thủ công truyền thống đã được khôi phục và phát triển khá mạnh. Tuy nhiên sự phát triển của các làng nghề còn mang tính chất tự phát, tùy tiện, quy mô sản xuất nhỏ bé, trang thiết bị còn lạc hậu. Tất cả những mặt hạn chế trên không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường làng nghề và sức khỏe cộng đồng.

Một trong các loại hình làng nghề phổ biến nhất ở nông thôn Việt Nam là làng nghề chế biến lương thực (làm bún, miến, bánh đa, chế biến tinh bột). Sự ô nhiễm môi trường nước tại các làng nghề này đang ở mức báo động, gây nhiều bức xúc cho xã hội. Các chỉ tiêu cơ bản của nước thải như COD. BOD, TSS... đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.

Nhằm góp phần vào việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước tại các làng nghề chế biến lương thực, chúng tôi tập trung nghiên cứu đề xuất các biện pháp công nghệ xử lý nước thải làng nghề chế biến lương thực. Trong công trình này chúng tôi tiến hành nghiên cứu xử lý nước thải làng nghề chế biến lương thực bằng phương pháp lọc sinh học ngập nước.

I. Thực nghiệm

1. Đối tượng nghiên cứu

  • Nước thải được lấy để nghiên cứu là nước thải làng nghề chế biến lương thực của xã Minh Khai, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (xã được công nhận là “Làng nghề chế biến nông sản” năm 2001, có 700 hộ trong tổng số 1.200 hộ dân tham gia sản xuất chế biến lương thực). Với các nghề chính là làm bún, phở khô, làm miến dong, sản xuất và tinh chế tinh bột sắn.
  • Đặc điểm của nước thải làng nghề chế biến lương thực là thường chứa các tạp chất hữu cơ ở dạng hòa tan hoặc lơ lửng, trong đó chủ yếu là các hợp chất hydrat cácbon như tinh bột, đường, các loại axit hữu cơ (lactic)... có khả năng phân hủy sinh học. Tỷ số BOD/COD trong khoảng từ 0,5 đến 0,7 nên chúng thích hợp với phương pháp xử lý sinh học [1, 2, 3, 4].
2. Thiết kế thí nghiệm

Sơ đồ hệ thống xử lý bằng phương pháp lọc sinh học ngập nước
alt

Nước thải của quá trình sản xuất bún, miến hoặc tinh chế tinh bột sắn được lắng gạn sơ bộ ở bể lắng (1) trước khi đưa vào bể chứa (2) sau đó nước thải được bơm vào cột lọc kị khí (3) theo chiều từ dưới lên với lưu lượng dòng được khống chế nhờ máy bơm (9) và ống chia dòng (8). Ở đây nước thải sẽ từ từ dâng lên ngập lớp vật liệu lọc (5) và tiếp xúc với lớp vật liệu lọc mang vi sinh vật kị khí, các tạp chất hữu cơ có trong nước thải sẽ bị phân hủy, phần bùn cặn được lắng xuống đáy cột và có thể lấy ra qua van (10) khi cần thiết; phần nước thải trong tiếp tục chảy tự nhiên qua cột lọc hiếu khí (6) từ phía dưới lên theo nguyên tắc bình thông nhau. Ở đây nước thải được trộn với dòng không khí thổi cùng chiều từ dưới lên bởi máy thổi khí (11) qua dàn phân phối khí (7). Khi đó quá trình phân hủy sinh học hiếu khí các tạp chất hữu cơ xảy ra, phần bùn được lắng xuống đáy cột; phần nước thải lại được lắng cặn một lần nữa nhờ máng lắng cặn (4) trước khi chảy ra khỏi cột hiếu khí.

Nước thải sau khi đi qua cả 2 cột lọc kị khí và hiếu khí sẽ được lấy ra nhờ van (13) để kiểm tra các chỉ tiêu cơ bản. Nếu chưa đạt các chỉ tiêu cho phép của nước thải công nghiệp theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5945 - 1995) thì lại cho chảy tuần hoàn trở lại qua 2 cột lọc kị khí và hiếu khí như trên cho đến khi đạt tiêu chuẩn cho phép về nước thải công nghiệp.

II. Kết quả và thảo luận

1. Kết quả xử lý nước thải của sản xuất bún

Nước thải của sản xuất bún ban đầu có các giá trị cơ bản như sau:
COD = 3076,3 mg/l; BOD5 = 2154,2 mg/l (tỷ lệ BOD5/COD  0,7)
[NH4+] = 29,89 mg/l; [NO2-] = 0,56 mg/l, pH = 4,91; độ đục = 243 NTU.
Sau khi trung hòa và pha loãng gấp đôi để có pH = 7.05 và thể tích là 58 lít; nước thải được xử lý qua hệ thống lọc sinh học kị khí và hiếu khí (như phần 2.2) với tốc độ 12 lít/h. Kết quả thu được như sau:

1.1 Sự thay đổi COD, độ đục theo thời gian xử lý
alt

1.2 Sự thay đổi pH, NH4+, NO2-, theo thời gian xử lý
alt

Kết quả thu được ta thấy: Đối với nước thải sản xuất bún có các chỉ tiêu ban đầu COD =1357,5 mg/l, [NH4+] = 15,42 mg/l, độ đục = 131 NTU ở pH = 7,05 được xử lý qua hệ thống lọc sinh học kị khí và hiếm khí sau thời gian 24 giờ, các chỉ tiêu cơ bản của nước thải sau xử lý đều đạt thấp hơn tiêu chuẩn Việt Nam về nước thải công nghiệp cho phép chảy vào nguồn nước công cộng. Cụ thể sau 24 giờ xử lý: COD = 26,2 mg/l, [NH4+] = 0,36 mg/l, [NO2-] = 0,05 mg/l; độ đục = 2,70 NTU; pH = 8,07.

2. Kết quả xử lý nước thải sản xuất miến dong

Nước thải sản xuất miến ban đầu có các giá trị cơ bản sau:
COD = 840 mg/l, BOD5 = 580 mg/l (tỷ số BOD5/COD = 0,69);
[NH4+] = 13,51 mg/l; [NO2-] = 0,35 mg/l, độ đục = 99,5 NTU, pH = 4,01.
Sau khi trung hòa và pha loãng gấp đôi để có thể tích 58 lít và pH = 8,05; nước thải được xử lý qua hệ thống lọc sinh học kị khí và hiếu khí (như phần 2.2) với tốc độ 12lít/h. Kết quả thu được như sau:

2.1 Sự thay đổi COD, độ đục theo thời gian xử lý
alt

2.2 Sự thay đổi pH, NH4+, NO2- theo thời gian xử lý
alt

Kết quả thu được ta thấy: Đối với nước thải sản xuất miến có các chỉ tiêu ban đầu: COD = 438,8 mg/l, [NH4+] = 6,75 mg/l; [NO2-] = 0,19 mg/l, độ đục = 45.2 NTU, pH = 8,05 được xử lý qua hệ thống lọc sinh học kị khí và hiếu khí sau thời gian 10 giờ các chỉ tiêu cơ bản của nước thải sau xử lý đều đạt các tiêu chuẩn Việt Nam về nước thải công nghiệp (TCVN 5945 - 1995). Cụ thể là: COD = 97,3 mg/l, [NH4+] = 1,87 mg/l; [NO2-] = 0,11 mg/l, độ đục = 9,71 NTU, pH = 8,23.

III. Kết luận
  • Nước thải làng nghề chế biến lương thực (sản xuất bún, miến hoặc tinh chế tinh bột) thường chứa các tạp chất có khả năng bị phân hủy sinh học (tỷ lệ BOD5/COD từ 0,6 đến 0,7) nên có thể được xử lý tốt bằng các phương pháp xử lý sinh học.
  • Bằng phương pháp lọc sinh học kị khí và hiếu khí có thể xử lý các loại nước thải của làng nghề chế biến lương thực đạt tiêu chuẩn Việt Nam về nước thải công nghiệp và được phép chảy vào dòng chảy chung (TCVN 5945 - 1995) trong khoảng thời gian tương đối ngắn: khoảng một ngày đêm (24h).
Công trình này được thực hiện trên cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học QMT06.03 của Đại học Quốc gia Hà Nội.
 
Theo www.hrpc.com.vn 

Đổi mới công nghệ sản xuất, góp phần hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới


Hiện nay, nhiều dự án khoa học kỹ thuật, ứng dụng đổi mới công nghệ như nghiên cứu cải tiến và sản xuất thử nghiệm máy gặt đập liên hợp; nghiên cứu sản xuất máy phân ly lúa giống; nghiên cứu sản xuất máy ép gạch cải tiến, ứng dụng công nghệ lò nung gạch Hoffiman trong chuyển đổi lò gạch nung gạch thủ công; ứng dụng hệ thống năng lượng mặt trời để tạo nước nóng sinh hoạt cho bệnh viện…đã góp phần gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, chế biến và đời sống dân sinh, xóa đói giảm nghèo trong vùng xây dựng nông thôn mới của tỉnh An Giang.

Các dự án ứng dụng chuyển giao công nghệ, sản xuất thử nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản như xây dựng mô hình áp dụng kỹ thuật "1 phải 5 giảm" trong sản xuất lúa, chuyển giao quy trình nhân nuôi nấm xanh tại quy mô nông hộ; phát triển mô hình trồng cây có hoa trên bờ ruộng lúa để thu hút thiên địch, phòng trừ sâu, rầy hại lúa; sản xuất rau an toàn.Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện các đề tài: Thử nghiệm xây dựng mô hình nuôi thương phẩm cá linh ống trong ao đất, nuôi tôm thương phẩm trong ao đất. Phát triển mô hình sản xuất giống lươn đồng bằng phương pháp sinh sản bán nhân tạo, mô hình nuôi cá lóc trong bể lót bạt bằng thức ăn công nghiệp và tự chế, mô hình chăn nuôi heo an toàn, xây dựng mô hình sản xuất và tập huấn sử dụng giống nấm men thuần trong sản xuất rượu gạo, nếp.

Nhiều dự án nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học đã góp phần giúp cho các địa phương và nông dân ứng dụng để xây dựng nông thôn mới, bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực như dự án phục tráng các giống lúa đặc sản có phẩm chất cao. Xây dựng quy trình sản xuất lúa theo tiêu chuẩn gạo sạch bằng phương pháp hữu cơ sinh học tại hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Nhiều giống lúa chống chịu sâu rầy, giống lúa thích ứng với biến đổi khí hậu, các giống lúa thơm Jasmine 85 Châu Phú, phục tráng giống nếp Phú Tân có chất lượng tốt được ứng dụng, góp phần tăng năng suất, nâng chất lượng sản phẩm và gia tăng lợi nhuận cho nông dân, thiết thực góp phần xây dựng nông thôn mới.

Các công nghệ sinh học được ứng dụng đa dạng, nhiều ngành nghề như khôi phục và phát triển giống xoài thơm Vĩnh Hòa- Tân Châu, nghiên cứu trích ly enzym bromelin từ vỏ khóm và ứng dụng vào công nghệ chế biến mắm cá ngắn ngày, chuyển giao công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm các loại cá linh, cá lăng, cá chạch lấu, cá leo, cá bống tượng, cá heo. Ngoài ra, các dự án trạm cung cấp thông tin tại 11 xã xây dựng nông thôn mới cũng đang góp phần thúc đẩy các xã hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới ở địa phương.

Có thể nói, chính sách đưa các dự án ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang đã mang lại hiệu quả tích cực. Những hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống phù hợp với nhu cầu thực tế ở địa phương đã góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới ở các xã điểm trên địa bàn tỉnh./.
(Theo TTXVN)

Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2012

Khóa tập huấn tại Sơn La – Giải pháp năng lượng mới cho DN chế biến


Sơn La là tỉnh có số giờ nắng cao nhất ở các tỉnh miền núi phía Tây Bắc – vùng nhiều tiềm năng về năng lượng mặt trời thứ hai ở Việt Nam. Cùng với đó là lượng sinh khối từ lõi ngô hàng năm lên đến 100.000 tấn. Đó là những nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo to lớn và quý giá có thể được tận dụng cho nhu cầu chế biến nông nghiệp như sấy sắn, ngô, long nhãn,… hoặc dùng cho các doanh nghiệp chè ở địa phương. Trong chuyến tập huấn từ ngày 8 đến 10 tháng 8 năm 2012, nhóm cán bộ của dự án SPIN thuộc Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam đã giới thiệu đến Sở Khoa học Công nghệ Sơn La và một số doanh nghiệp tại địa phương giải pháp công nghệ và tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất và lợi nhuận.
Công nghệ được giới thiệu là công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời kết hợp với sử dụng bếp khí hóa nhiên liệu sinh khối giúp sử dụng năng lượng tiết kiệm và giảm phát thải khí nhà kính.
Giải pháp tài chính được giới thiệu là hỗ trợ của Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thông qua hai hình thức bảo lãnh (50% vốn vay tín dụng tại ngân hàng) và trả thưởng (tới 25% vốn vay tín dụng).
Các công ty tham gia khóa tập huấn:

1. Cty CP Chè Cờ đỏ,
2. Cty CP Chè Chiềng ve,
3. TCT Chè Việt Nam chi nhánh Mộc Châu,
4. Công ty mía đường Mộc Châu
5. Công ty rượu Việt Pháp
6. Các phòng của Sở khoa học công nghệ Sơn La

Chuyên gia của VNCPC giới thiệu về Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tới các đại biểu


Chuyên gia của VNCPC đang trình diễn công nghệ bếp khí hóa


Chuyên gia của VNCPC khảo sát tại doanh nghiệp