Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp để phát triển bền vững

(NTO) Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, sản xuất sạch hơn (SXSH) đã trở thành một trong những chiến lược quan trọng của ngành Công nghiệp vì nó không chỉ giúp các doanh nghiệp (DN) nâng cao hiệu quả sản xuất, tái sử dụng phế phẩm và bán thành phẩm có giá trị, tạo hình ảnh tốt hơn cho doanh nghiệp, mà còn giúp bảo vệ môi trường nơi làm việc, cải thiện sức khỏe cho người lao động và đưa công nghiệp phát triển bền vững.

Theo ông Nguyễn Thanh Hoan, Giám đốc Sở Công Thương: Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn bảo vệ môi trường trong xu hướng hiện nay được coi là giải pháp tăng trưởng ổn định và tất yếu. Sự gia tăng về số lượng các DN đã đưa nền kinh tế tỉnh nhà chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng nhanh tỷ trọng kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên từ đó cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường cần được quan tâm và tháo gỡ kịp thời, tạo tiền đề để đưa công nghiệp phát triển bền vững.


Công nhân Công ty CP Mía đường Phan Rang đóng bao thành phẩm đường RS.
Ảnh: Duy Anh

Hiện toàn tỉnh có trên 160 DN công nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề: chế biến nông lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến khoáng sản,…và hàng ngàn cơ sở sản xuất nhỏ phát triển để khai thác có hiệu quả tiềm năng của địa phương với nhiều chính sách cụ thể như tiết kiệm điện năng tiêu thụ, cải tiến công nghệ, máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh,…. Ngoài ra, còn có các khu công nghiệp (KCN), trong đó chủ yếu là các cụm công nghiệp (CCN) đã được xây dựng và đi vào hoạt động, hầu hết các KCN và CCN chưa có hệ thống xử lý chất thải hoàn chỉnh. Nhiều DN đã có ý thức về bảo vệ môi trường nhưng do khả năng tài chính, công nghệ, kỹ thuật hạn chế nên chưa triển khai được.

Công tác quản lý nhà nước và trợ giúp, định hướng các DN, cơ sở sản xuất nhằm hướng tới SXSH trên địa bàn tỉnh mới chỉ dừng lại ở việc tham gia thẩm định các thiết kế cơ sở các dự án trên địa bàn tỉnh, từ đó đóng góp ý kiến, khuyến cáo các đơn vị về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, ít tiêu hao năng lượng và nguyên, nhiên, vật liệu...

Để từng bước giúp các DN tiếp cận với công nghệ SXSH, trong 2 năm qua, Sở Công Thương đã phối hợp với Hợp phần SXSH trong công nghiệp (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo “Phổ biến về SXSH cho cơ sở công nghiệp tỉnh Ninh Thuận” và Khóa tập huấn “SXSH cho cơ sở công nghiệp tỉnh Ninh Thuận”, với tổng kinh phí 70 triệu đồng từ ngân sách Trung ương; ngân sách địa phương hỗ trợ 43,1 triệu đồng phát hành ấn phẩm và tờ gấp tuyên truyền về SXSH trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh và tổ chức khóa tập huấn “Nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng thực hiện SXSH trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận”. Các lớp tập huấn tập trung vào việc tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn cách tiếp cận phương thức SXSH, trên cơ sở đó cùng các DN, cơ sở sản xuất đánh giá và đưa ra giải pháp cụ thể. Cũng trong năm 2012, qua rà soát tỉnh ta hiện có 2 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm trong nhóm những DN sử dụng năng lượng trọng điểm (quy dầu đạt trên 1.000 tấn) là: Công ty Cổ phần Xây dựng Ninh Thuận và Công ty TNHH MTV Xi măng Luks. Việc xác định này góp phần hình thành mạng lưới quản lý năng lượng, theo dõi nhu cầu sử dụng năng lượng hiệu quả tại địa phương. Đây là bước quan trọng giúp các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh tiếp cận và bước đầu làm quen với công nghệ SXSH.

Cũng chỉ trong 2 năm qua, Sở Công Thương đã hỗ trợ một số đơn vị ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến hoặc cải tiến một số công đoạn trong dây chuyền sản xuất, hướng tới bảo vệ môi trường như thực hành quản lý nội vi, trong đó có kiểm soát quá trình sản xuất, tiết kiệm triệt để nguyên liệu đầu vào, tái sử dụng phế phẩm,…Một trong những DN đầu tiên đã mạnh dạn đầu tư ứng dụng SXSH trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh là Công ty Cổ phần Mía đường Phan Rang. Với công suất 1.500 tấn mía mỗi ngày, Công ty đã sử dụng trên 400 kWh điện sản xuất trên 100 tấn đường, đồng thời thải ra môi trường lượng bã mía gây lãng phí không ít. Sau khi tiếp cận Chiến lược SXSH trong công nghiệp, Công ty đã đầu tư 18 tỷ đồng để xây dựng lò hơi cao áp siêu nhiệt, sử dụng bã mía làm chất đốt để chạy tuabin phát điện. Kết quả Công ty đã tiết kiệm trên 70% chỉ số tiêu thụ điện năng trong sản xuất, đồng thời đáp ứng điện cho khối văn phòng. Không chỉ sử dụng bã mía làm chất đốt để sản xuất điện thay cho điện lưới quốc gia mà còn giải quyết thực trạng bã thừa, giảm thiểu chất thải rắn, làm sạch môi trường và góp phần hạ giá thành sản phẩm. Việc làm này của công ty được xem là điểm sáng trong ứng dụng SXSH trong công nghiệp tỉnh nhà.

Sở Công Thương còn tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch hành động SXSH trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2015; chỉ đạo Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến thương mại thành lập phòng SXSH,…Hoạt động trên đã giúp DN nhận thức rõ hơn khái niệm SXSH và thấy được lợi ích thiết thực. Ông Nguyễn Đức Hòa, Phó Giám đốc Công ty CP Xi-măng Phương Hải, chia sẻ: “Vừa qua, chúng tôi đã đầu tư dây chuyền mới, hiện đại hơn 6 tỷ đồng để nâng cao chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc gia về xi-măng; triển khai các giải pháp nhằm từng bước áp dụng SXSH vào hoạt động của DN. Đây là giải pháp để DN đạt mục tiêu nâng cao năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.”


Công ty Cổ phần Xuất khẩu Nông sản đổi mới dây chuyền sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ảnh: Sơn Ngọc

Thực tế, từ khi áp dụng SXSH trong công nghiệp, một số DN đã giảm trên 10% chi phí sản xuất, giảm 15-20% các chất thải ô nhiễm…Tuy nhiên, việc triển khai Chương trình SXSH trong công nghiệp tại tỉnh ta cũng gặp không ít khó khăn: thiếu sự  quan tâm và cam kết của các cơ sở công nghiệp với chiến lược SXSH; thiếu các chuyên gia về SXSH; thiếu nguồn tài chính để đầu tư cho các công nghệ mới, sạch hơn. Đặc biệt, thiếu hệ thống quy định có tính chất pháp lý để bắt buộc DN áp dụng SXSH. Có DN bỏ ra hàng tỷ đồng đầu tư cho SXSH, trong khi các DN khác tự do xả chất thải ra môi trường chỉ bị xử phạt hành chính với số tiền rất nhỏ.

Để đạt được mục tiêu thực hiện chiến lược SXSH trong công nghiệp đến năm 2020, tỉnh ta phấn đấu đến năm 2015, 100% đơn vị sản xuất công nghiệp trong tỉnh được tuyên truyền, phổ biến các nội dung cơ bản về SXSH; trên 100 cơ sở sản xuất công nghiệp điển hình triển khai áp dụng chương trình SXSH. Hàng năm, Sở Công Thương xây dựng kế hoạch thực hiện SXSH, trong đó năm 2013, sẽ tập trung nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng SXSH trong công nghiệp, xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu về SXSH; hỗ trợ kỹ thuật áp dụng SXSH tại các cơ sở sản xuất công nghiệp; hoàn thiện mạng lưới các tổ chức hỗ trợ SXSH trong công nghiệp và hoàn thiện cơ chế chính sách về tài chính thúc đẩy áp dụng SXSH trong công nghiệp. Ngoài ra, còn nghiên cứu công nghệ mới để trong quá trình thẩm định thiết kế cơ sở sẽ có những khuyến cáo chính xác, để góp phần phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bên cạnh sự nỗ lực của Sở Công Thương còn cần phải có sự hợp tác của các sở, ngành, địa phương liên quan và cả cộng đồng.

Theo Báo Ninh Thuận

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Bình Định: Hướng tới sản xuất sạch hơn

Bình Định có khá nhiều khu công nghiệp (KCN), tiểu thủ công nghiệp (TTCN) đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Hầu hết các KCN chưa có hệ thống xử lý chất thải hoàn chỉnh. Nhiều doanh nghiệp (DN) đã có ý thức về bảo vệ môi trường nhưng do khả năng tài chính, công nghệ, kỹ thuật hạn chế nên chưa triển khai được công tác này.


Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng SXSH vào hoạt động sản xuất ảnh: Cấn Dũng

Ông Nguyễn Bá Tài - Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Bình Định (TTKC&TVPTCN) - cho biết: 2 năm qua, TTKC đã phối hợp với Hợp phần sản xuất sạch hơn (SXSH) trong CN (Bộ Công Thương) đầu tư gần 200 triệu đồng cho SXSH. Trong đó, 100 triệu đồng dành cho tập huấn và hội thảo về SXSH cho các cán bộ quản lý, DN, cơ sở sản xuất và các làng nghề; 100 triệu đồng thực hiện đánh giá nhanh SXSH cho 5 DN trên địa bàn.

TTKC còn tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch hành động SXSH trên địa bàn giai đoạn từ nay đến năm 2015; thành lập Văn phòng SXSH thuộc TTKC & TVPTCN…

Hoạt động trên đã giúp DN nhận thức rõ hơn khái niệm SXSH và thấy được lợi ích thiết thực. Ông Phạm Xuân Thủy - Giám đốc Công ty TNHH đá Bình Minh (KCN Phú Tài) - chia sẻ: Vừa qua, công ty đã đầu tư gần 2 tỉ đồng để triển khai các giải pháp nhằm từng bước áp dụng SXSH vào hoạt động của DN. Đây là giải pháp để DN đạt mục tiêu nâng cao năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Thực tế, từ khi áp dụng SXSH trong CN, một số DN đã giảm trên 10% chi phí sản xuất, giảm 15-20% các chất thải ô nhiễm…

Tuy nhiên, việc triển khai Chương trình SXSH trong CN tại Bình Định cũng gặp không ít khó khăn: Thiếu sự  quan tâm và cam kết của các cơ sở CN với chiến lược SXSH; thiếu các chuyên gia về SXSH; thiếu nguồn tài chính để đầu tư cho các công nghệ mới, sạch hơn. Đặc biệt, thiếu hệ thống quy định có tính chất pháp lý để khuyến khích DN hướng đến SXSH. Có DN bỏ ra hàng tỷ đồng đầu tư cho SXSH, trong khi các DN khác tự do xả chất thải ra môi trường chỉ bị xử phạt hành chính với số tiền rất nhỏ.

Theo ông Nguyễn Bá Tài, ứng dụng các giải pháp SXSH nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả kinh tế tại các khu vực làng nghề là một trong những trọng tâm của hoạt động SXSH tại Bình Định trong năm 2013. TTKC & TVPTCN Bình Định sẽ lồng ghép kinh phí khuyến công tập trung áp dụng các giải pháp SXSH vào khu vực làng nghề, như làng nghề tinh bột sắn, làm bún, mạ sơn….

Để đạt được mục tiêu thực hiện chiến lược SXSH trong CN đến năm 2020, Bình Định phấn đấu đến năm 2015, 100% đơn vị sản xuất CN trong tỉnh được tuyên truyền, phổ biến các nội dung cơ bản về SXSH; trên 100 cơ sở sản xuất CN điển hình triển khai áp dụng chương trình SXSH.

Theo báo Công thương

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Hộ kinh doanh cá thể Đào Văn Tùng: Ứng dụng công nghệ mới để sản xuất sạch hơn


Với việc đăng ký tham gia dự án thay đổi công nghệ với Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tại Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC), hộ kinh doanh cá thể Đào Văn Tùng (Hoài Đức, Hà Nội) đã có những cải thiện đáng kể về công nghệ với dây chuyền làm việc mới giúp giảm lượng nước sạch tiêu thụ đến 99%, tổng lượng nước sử dụng giảm đi hàng năm lên tới 12.000m3.

Hộ kinh doanh cá thể Đào Văn Tùng chuyên cung cấp các sản phẩm lưới nhựa trong khu vực nội địa đặc biệt các đại lý bán lẻ trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội. Tính đến năm 2011, hộ đã có 18 nhân công với doanh thu đạt được là 570.000USD (số liệu thống kê năm 2011). 

Các thiết bị được doanh nghiệp dùng để sản xuất lưới nhựa như: máy trộn, máy đùn ép, hệ thống tuần hoàn nước làm mát, bàn nhiệt (kéo dãn), máy cuộn, máy dệt đều sử hoạt động theo công nghệ cũ dẫn đến lượng tiêu thụ nước lớn và mức tiêu hao năng lượng cao. Bên cạnh đó là ảnh hưởng tới môi trường từ lượng nước làm mát và nước nóng thải ra ngoài.

Sau khi đăng ký dự án thay đổi công nghệ với Quỹ Ủy thác Tín dụng xanh tại Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC). Dây chuyền sản xuất lỗi thời trước đây với bước trộn thủ công, máy đùn ép đời cũ, hệ thống làm mát không tuần hoàn nước và  kéo dãn bằng  nước nóng được thay thế bằng dây chuyền sản xuất hiện đại bán tự động. Việc thay đổi công nghệ này giúp doanh nghiệp cắt giảm đáng kể lượng nước sử dụng nhờ có tuần hoàn nước làm mát và bàn nhiệt. Dây chuyền sản xuất mới cho thấy tiết kiệm một lượng nước rất lớn cũng như sử dụng năng lượng hiệu quả hơn so với hệ thống máy móc cũ cụ thể là: giảm lượng nước sạch tiêu thụ tới 99% cùng với tăng hiệu quả sản xuất hàng ngày lên 8%. Tổng lượng nước sử dụng giảm đi hàng năm lên tới hơn 12.000m3, tiêu thụ điện giảm 30%. Bên cạnh đó, điều kiện làm việc của nhân công cũng được cải thiện do nhiệt độ môi trường giảm và giảm rủi ro do tai nạn chảy tràn; năng suất lao động tăng lên và cũng tăng khả năng giao hàng đúng hạn.



Thay đổi công nghệ giúp doanh nghiệp giảm đáng kể lượng nước sử dụng

Khoản vay tín dụng mà hộ kinh doanh cá thể Đào Văn Tùng đầu tư cho dự án này là 161.982USD. Hộ kinh doanh của ông Tùng đã được GCTF bảo lãnh 50% giá trị khoản vay với mức được phê duyệt là 80.991USD tại Ngân hàng Techcombank. Sau khi kết thúc dự án, từ việc phân tích chỉ số môi trường lựa chọn (sử dụng nước sạch) được đo đạc trước và sau khi đầu tư vào dây chuyền sản xuất mới, từ mức giảm sử dụng nước sạch được xác định, doanh nghiệp đã được thụ hưởng khoản trả thưởng cao nhất của quỹ GCTF tương đương với 25% giá trị tín dụng  (40.495USD) cho việc cải thiện môi trường.


Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

Công nghệ sản xuất xi măng của Nhật Bản

Công ty thiết kế Taiheiyo là một trong những công ty nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí cho công nghiệp xi măng của Nhật Bản. Đáp ứng cho những yêu cầu thực tế ngày càng cao trong công nghệ sản xuất xi măng, ông ty thiết kế Taiheiyo đã nghiên cứu thiết kế một số thiết bị công nghệ mới như: Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất; hệ thống nhánh trích khí Clo mới nhất; Máy phân li khí hiệu suất cao O-Sepa. Trong bài này giới thiệu sự phát triển hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt 100% nhiên liệu khó cháy và Máy phân li khí hiệu suất cao O –Sepa.
Do các điều kiện kinh tế có và giá bán xi măng thấp trên thị trường thế giới, nên có rất nhiều cố gắng để làm sao giảm giá thành xi măng sản xuất. Một trong những biện pháp này là giảm chi phí nhiên liệu sử dụng. Việc này đã thúc đẩy công ty thiết kế Taiheiyo phát triển hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường), để có thể sử dụng 100% nhiên liệu có chất lượng kém và giá thấp như than antraxit, FOC và DOC (sản phẩm phụ từ chế biến dầu mỏ). Đốt bằng các nhiên liệu khó cháy sẽ rẻ hơn và chúng có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời các nhiên liệu này có chất bốc cháy thấp và có đặc tính tốc độ cháy chậm.
Hệ thống tiền nung RSP mới nhất (tháp trao đổi nhiệt tầng sôi tăng cường) này đem thuận lợi cho việc tận dụng các loại nhiên liệu có chất lượng thấp và giá rẻ, vì vậy cho phép làm giảm giá nhiên liệu cũng như chi phí sản xuất xi măng. Thành công này không những làm giảm giá nhiên liệu để sản xuất xi măng mà còn giúp hướng tới giữ gìn nguồn nhiên liệu và kéo dài tuổi thọ các mỏ nhiên liệu tự nhiên (than). Những nhiên liệu chất lượng thấp, giá rẻ cũng nằm trong những loại nhiên liệu khó cháy như than antraxit (nguồn tại địa phương), FOC (than cốc dầu lỏng) và DOC (than cốc dầu lưu) từ các sản phẩm phụ của công nghiệp lọc dầu mỏ. Các nhiên liệu khó cháy nêu trên có giá rẻ và có nhiệt trị cao nếu so sánh với loại than bình thường, nhưng đồng thời chúng có chất bốc thấp và với đặc điểm tốc độ cháy chậm. Dễ dàng đốt cháy các nhiên liệu khó cháy trong lò quay vì thời gian lưu dài và nhiệt độ cao có thể đạt được tại dôn đốt đầu tiên. Nhưng những nhiên liệu này lại khó đốt trong hệ thống trao đổi nhiệt do khó giữ thời gian lưu dài và nhiệt độ cao tại dôn đốt đầu tiên.
Một đặc điểm đặc trưng của than bitum thông thường cũng được giới thiệu để dễ dàng so sánh. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có hàm lượng chất bốc thấp so với than bitum thông thường. Mặt khác than cốc dầu FOC và DOC lại có hàm lượng sunfua cao nếu so với than antraxit và than bitum thông thường. Cả ba loại nhiên liệu khó cháy này đều có nhiệt trị cao hơn nhiều, nhưng tốc độ cháy chậm, vì vậy đòi hỏi nhiệt độ bốc cháy cao hơn ngay từ đầu so với than bình thường.
Công nghệ nguyên khai đốt cháy 2 giai đoạn trong RSP:
Nhìn chung mặc dầu khó khống chế nhiệt độ tâm ngọn lửa trong buồng tiền nung, chúng ta đã không gặp phải khó khăn như vậy trong việc giữ nhiệt độ cao vì hệ thống buồng tiền nung RSP là hệ thống có hai giai đoạn cháy. Gió 3 được cấp vào buồng tiền nung RSP bằng 2 con đường khác nhau. Nếu cần thiết độ cao hơn trong RSP, có thể đơn giản mở van của của vòi đốt Swirl (SB). Nhờ tăng khối lượng khí 3 qua van SB thì việc đốt cháy ban đầu (đốt cháy các chất bốc) của nhiên liệu sẽ được tăng cường do có hàm lượng O2 cao hơn, dẫn đến đạt nhiệt độ cao trong buồng RSP. Và việc đốt cháy ban đầu được thực hiện không có hỗn hợp bột nhiên liệu từ những tầng xiclôn dưới cùng. Có sự liên kết rất rõ giữa “góc mở của van SB” và “nhiệt độ tâm trong RSP” được biểu diễn bằng giản đồ. Giản đồ này đã được thực hiện qua việc vận hành thực tế trong suốt giai đoạn đầu của sự phát triển RSP trong mấy năm qua. Từ giản đồ này thấy rằng có thể dễ dàng đạt được nhiệt độ tâm ngọn lửa cao trong RSP nếu tăng độ mở của van SP cũng như tăng nhiệt độ gió 3 từ máy làm lạnh clinker.
Công nghệ buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khô cháy:
Chú ý tới các đặc tính cơ bản cho đốt than antraxit đơn như “bắt lửa khó và tốc độ cháy chậm” và công nghệ đốt 2 giai đoạn của thiết kế nguyên khai RSP, các nguyên tắc yêu cầu hiết kế về buồng tiền nung mới nhất để đốt nhiên liệu khó cháy bao gồm:
- Tăng thời gian lưu dôn tiền nung (để đạt được cháy hoàn toàn).
- Có khoảng không gian từ đầu và cuối vòi đốt tới đầu vào của bột liệu (để đạt được đốt cháy hoàn toàn).
- Phân phối bột liệu vào buồng tiền nung trong 2 vị trí khác nhau (để tối ưu hoá điều kiện đốt trong buồng tiền nung). Có sự khác nhau giữa RSP truyền thống và buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn. Khi so sánh với RSP truyền thống, buồng tiền nung RSP mới nhất để đốt than antraxit đơn có một ống dẫn kéo dài lên cho đầu ra của buồng trộn tới đầu vào của xiclôn tầng dưới cùng và phần kéo dài phía dưới của buồng tiền nung. Nhiệt độ của dôn nung trong buồng tiền nung cao hơn so với điều kiện chuẩn trong RSP truyền thống. Chính là do buồng tiền nung đã được vận hành không có sự phân phối bột liệu từ xiclôn tầng gần dưới cùng và cấp cho chỉ phần dưới của buồng tiền nung như của RSP truyền thống. Các số liệu khác giống như RSP truyền thống. Do sử dụng thành công các nhiên liệu khó cháy đã giúp cho giảm chi phí sản xuất cũng như hỗ trợ chủ trương bảo tồn các mỏ nhiên liệu than tự nhiên. Với việc thành công đốt cháy 100% than antraxit đã mở đường cho việc sử dụng công nghệ đốt cháy 100% than cốc dầu. Mới đây, nhánh trích khí Clo đơn giản đã cải tiến và được áp dụng, khi có yêu cầu để hệ thống này khắc phục sự dư thừa khí Sunfua, Clo,,,Hệ thống buồng tiền nung RSP mới nhất đảm bảo vận hành liên tục và ổn định khi chỉ dùng 100% các loại hình nhiên liệu khó đốt cháy bởi các đặc điểm vượt trội của hệ thống RSP mới nhất này.
Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa
Thiết bị phân li khí hiệu suất cao O-Sepa được phát triển bởi Công ty xi măng Taiheiyo và được sử dụng thành công trong các nhà máy xi măng là một thiết bị phân li khí lớn, hiệu suất cao có thể xử lý một lượng lớn bột liệu trong một thiết bị gọn, cho phép giảm giá đáng kể chi phí ban đầu và chi phí vận hành trong sản xuất xi măng. Nó còn cho phép phân li chính xác các sản phẩm mịn với nhiệt độ thấp hơn so với thiết bị phân li khí truyền thống. Điều này cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí thấp đáng kể.
Thiết bị phân li khí truyền thống thường sử dụng trong công nghiệp xi măng không có một lượng khí đồng nhất để phân li và cũng không có điều kiện thay đổi đồng bộ các vật liệu trong buồng phân li. Điều này làm cho hiệu quả phân li trong các thiết bị này rất kém. Và kích thước các thiết bị nghiền và phân li trở nên lớn hơn, người ta hy vọng rằng các thiết bị sản xuất đại trà có hiệu quả cao với giá thành ban đầu giảm và cho phép sản xuất xi măng chất lượng cao với chi phí vận hành giảm giá đáng kể.
Để giải quyết các vấn đề này, Công ty xi măng Taiheiyo đã phát triển thiết bị phân li khí O-Sepa và hệ thống áp dụng chúng, cho phép duy trì hiệu quả phân li cao nhất tương ứng với kích thước của nó. Nó có một cơ chế độc đáo đảm bảo 2 bước xoáy dòng khí trong buồng phân li, điều này đảm bảo sự phân li chính xác trong một thể tích rất gọn, thay vì sự vận hành trong các điều kiện khí rắn đậm đặc cao.
Công nghệ O-Sepa có các đặc tính sau:
- Việc ngắt rất chính xác không thể có được trong máy phân li truyền thống thì nay có thể thực hiện được bằng một cơ cấu phân li duy nhất.
- Trong trường hợp sử dụng cho xi măng, sư phân bố cỡ hạt được cải thiện làm cho cường độ cao hơn ngay cả khi có bề mặt diện tích riêng thấp.
- Hiệu quả phân li cao dẫn tới hiệu quả nghiền cao và tiêu hao năng lượng thấp.
- Cỡ hạt mịn rất dễ dàng lựa chọn bằng cách đơn giản điều chỉnh vận tốc quay, như vậy rẩt phù hợp với một hệ thống nghiền nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Một khối lượng lớn khí lạnh được sử dụng cho phân ly làm cho nhiệt độ sản phẩm thấp hơn.
- Khi chứa nhiều bụi từ hệ thống nghiền được sử dụng để phân li làm cho hệ thống đơn giản hơn.
- Hệ thống O-Sepa gọn hơn so với phân li truyền thống. O-Sepa rất lý tưởng để phân li các vật liệu như tất cả các loại xi măng, nguyên liệu ximăng, đá vôi, đá sét, xỉ, than đá, trobay và cốc.
Khi sử dụng thiết bị phân li O-Sepa sản xuất các sản phẩm xi măng sẽ đạt:
1. Hiệu suất phân li tuyệt vời, công suất máy nghiền có thể tăng thêm 5-10%, như vậy giảm tiêu hao năng lượng.
2. Do khí chứa bụi cao được sử dụng như là khí phân li, một khối lượng khí lớn được thoát ra từ máy nghiền và như vậy nhiệt độ của xi măng xuống thấp.
3. Một khối lượng vật liệu lớn có thể được xử lý trong một thiết bị rất gọn.
4. Sự phân bố cỡ hạt xi măng được cải thiện, góp phần làm tăng mác xi măng, do vậy diện tích bề mặt riêng của sản phẩm mịn có thể giảm xuống (5-10%).
5. Độ mịn của sản phẩm có thể dễ dàng điều chỉnh trong một dải rộng (từ 2.000đến 7.000cm2/g) bằng cách đơn giản thay đổi vận tốc quay
Nguồn  Hiệp hội Xi măng Việt Nam.
http://gctf.vn/cong-nghe-san-xuat-xi-mang-cua-nhat-ban/

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Đổi mới công nghệ ở các làng nghề Hà Nội

Đổi mới là yêu cầu tất yếu

Lâu nay, chúng ta vẫn dùng cái tăm để nói những chuyện nhỏ không đáng bàn. Nhưng khi Việt Nam dùng USD để nhập tăm tre thì nó không còn là chuyện nhỏ nữa. Một đất nước nhiều làng nghề, người nông dân vẫn cần việc làm thêm để tăng thu nhập, một đất nước tự hào là đất nước của tăm tre mà hàng nghìn tấn tăm tre được nhập qua các cửa khẩu là một chuyện đáng phải suy nghĩ. Việt Nam không thiếu nguyên liệu, giá nhân công Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất thế giới. Nhưng tăm ngoại vẫn... rẻ hơn. Nguyên nhân là việc sản xuất tăm của nước ngoài được hỗ trợ bởi máy móc kỹ thuật nên "nhanh, nhiều, rẻ" hơn tăm tre Việt Nam.

Với 1.350 làng nghề, Hà Nội đứng đầu danh sách làng nghề cả nước. Năm 2010, các làng nghề thu hút 170.600 hộ gia đình tham gia, giá trị sản xuất đạt hơn 8.600 tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng như mặt hàng tăm tre, nhiều mặt hàng của các làng nghề Hà Nội chịu sự cạnh tranh gay gắt của các mặt hàng nước ngoài cùng chủng loại, trên cả "sân nhà" lẫn trong xuất khẩu. Lâu nay chúng ta mới nói đến đổi mới công nghệ để tránh ô nhiễm môi trường, để bảo đảm vệ sinh thực phẩm, tuy nhiên, còn vấn đề quan trọng khác là đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, để thích nghi với những yêu cầu mới của xã hội. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với các làng nghề trên địa bàn Thủ đô.

Một trong những thí dụ dễ thấy về sự cần thiết trong đổi mới là ở làng nghề mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ). Vài năm trở lại đây, nghề mây tre đan ở Phú Vinh bị thu hẹp, thị trường xuất khẩu gặp khó khăn. Theo nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, Chủ tịch Hội Nghệ nhân Phú Vinh, một trong những nguyên nhân là do mây tre đan Phú Vinh đang gặp sự cạnh tranh quyết liệt từ các sản phẩm cùng chủng loại của Trung Quốc, Thái-lan, In-đô-nê-xi-a... Đây cũng là những nước có truyền thống về hàng thủ công mỹ nghệ. Theo ông Trung, chúng ta đang yếu thế về chất lượng sản phẩm cũng như giá thành. Nếu không có sự thay đổi từ chính các công đoạn sản xuất, từ giá thành sản phẩm thì sản phẩm của chúng ta khó cạnh tranh nổi. Qua khảo sát cách làm ăn của Trung Quốc, ông Trung cho biết, mặc dù là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, nhưng hiện nay, các nhà sản xuất mây tre nước này đã áp dụng công nghệ vào khá nhiều công đoạn, nhất là khâu không đòi hỏi sự tinh xảo của bàn tay người thợ như pha chế, xử lý nguyên liệu, do đó tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh. Trong khi đó, phần lớn các cơ sở sản xuất ở Phú Nghĩa vẫn chưa quan tâm việc đổi mới công nghệ trong một số công đoạn sản xuất. Nếu không có sự đầu tư, việc "hụt hơi" trong cạnh tranh là điều khó tránh.

 Bắt đầu từ đâu?

Chúng ta từng có những bài học về thành công trong đổi mới công nghệ làng nghề. Một điển hình là ở làng nghề Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội). Hiện tại, hầu hết các cơ sở sản xuất gốm Bát Tràng đã chuyển từ lò than sang lò ga. Nhiều cơ sở chỉ giữ lò than để phục vụ nhu cầu tham quan của du khách. Đổi mới công nghệ khiến cho môi trường làng nghề giảm ô nhiễm. Bên cạnh đó, dùng lò ga khiến người thợ hoàn toàn chủ động về điều chỉnh nhiệt độ, qua đó, cho ra đời những sản phẩm ưng ý hơn, ít sản phẩm bị lỗi, nâng cao hiệu suất. Tuy nhiên, không phải tất cả những đổi mới ở các làng nghề đều thành công.

Làng nghề Hạ Thái (huyện Thường Tín, Hà Nội) nổi tiếng với các sản phẩm sơn mài. Sơn mài Hạ Thái được xuất đi đến nhiều thị trường lớn trên thế giới, từ các nước châu Âu cho đến Hoa Kỳ, Nhật Bản. Trước kia, sản phẩm sơn mài Hạ Thái dùng sơn ta. Tuy nhiên, nhược điểm của việc sử dụng sơn ta là tốn nhiều thời gian sản xuất. Trong khi đó, khi thực hiện các hợp đồng với đối tác nước ngoài, vấn đề thời gian giao các lô hàng được kiểm soát rất gắt gao. Người Hạ Thái nhanh chóng đổi mới bằng việc sử dụng sơn Nhật. Việc dùng sơn Nhật cho sản phẩm đem lại hiệu quả tức thì: Sản phẩm nhanh khô, dễ xử lý và có giá thành thấp hơn ba đến bốn lần so sản phẩm làm bằng sơn ta. Vì thế, mặt hàng sơn mài Hạ Thái làm từ sơn Nhật bán khá chạy. Nhưng đó mới là một nửa của vấn đề. Sản phẩm sơn mài làm từ sơn ta là một đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam. Độ bền của sản phẩm này lên tới vài trăm năm. "Đổi mới" bằng việc dùng sơn Nhật đem lại cái lợi trước mắt. Song về lâu dài, nguy cơ mai một nghề truyền thống là điều hiện hữu. Chính nghệ nhân Đỗ Trọng Tuất - một nghệ nhân cao niên của làng Hạ Thái thừa nhận là làng nghề ngày càng ít người thợ khéo tay. Nếu mải chạy theo vấn đề trước mắt, nghề sơn mài truyền thống có thể biến mất hoàn toàn.

Một vấn đề nan giải không kém trong đổi mới là nguồn vốn. Những máy móc sơ chế nguyên liệu mây tre đan như ở Phú Vinh có giá thành lên đến hàng trăm triệu đồng. Trong khi đó, phần đông các hộ gia đình làm nghề mây tre đan đều là các hộ sản xuất nhỏ lẻ, khả năng đầu tư vốn hạn chế. Không những thế, việc mua các loại máy móc phục vụ cho đổi mới công nghệ làng nghề không dễ. Nhận thấy nghề mây tre đan có thể sử dụng máy móc vào nhiều công đoạn không đòi hỏi sự tinh tế của bàn tay con người, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung là người tiên phong trong đổi mới công nghệ. Nhưng để đổi mới công nghệ cho cơ sở sản xuất của mình, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung phải nhập khẩu máy từ Trung Quốc. Như thế, để làng nghề phát triển, chúng ta vẫn còn thiếu một mảng quan trọng trong công nghiệp, đó là sản xuất máy móc phục vụ làng nghề.

Cần những giải pháp cụ thể
Hà Nội đã soạn dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong đó, có vấn đề đổi mới công nghệ làng nghề, nhưng vấn đề này được đề cập rất sơ lược. Những giải pháp được xem là quan trọng nhất trong dự thảo Quy hoạch này mới chỉ dừng lại ở mức khuyến khích các hộ sản xuất áp dụng công nghệ mới, cơ quan chức năng của thành phố hỗ trợ nghiên cứu và tuyên truyền hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... Nếu chỉ làm như vậy thì không thể giải quyết những vấn đề bức xúc nêu trên ở các làng nghề. Hiện nay, thành phố đã phân nhóm những làng nghề như: làng nghề thêu ren; làng nghề mây - tre - đan, tăm hương, làm lồng chim; làng nghề cơ kim khí... Việc cần thiết là phải đánh giá thực trạng những nhóm ngành nghề nào có thể đổi mới công nghệ thay cho lao động thủ công; những công đoạn cụ thể nào cần đổi mới, từ đó mới đưa ra những biện pháp thiết thực để hỗ trợ người nông dân. Đã đến lúc, chúng ta cần xây dựng một nền công nghiệp hỗ trợ cho các làng nghề ở khu vực nông thôn, có như vậy các làng nghề, nhất là làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới có thể phát triển bền vững, giúp người nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Theo Nhandan.

Đổi mới công nghệ - con đường ngắn nhất dẫn đến thành công của doanh nghiệp

 Trong môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, hiện nay, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững. Thực tế này đang đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu bức thiết về đổi mới công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường…

 Bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu không có những hoạt động nhằm đổi mới công nghệ thì chắc chắn hệ thống công nghệ, dây chuyền sản xuất, máy móc, trang thiết bị… sẽ trở nên lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến bị đào thải, làm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bị đe doạ. Đổi mới công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được nâng lên đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ tạo được ưu thế vững vàng trên thị trường cạnh tranh. Hà Tĩnh như một công trường lớn. Hầu như ngày nào tỉnh nhà cũng được đầu tư, nâng cấp để từng bước khẳng định mình, vươn lên trở thành một trong những trung tâm công nghiệp hiện đại và phát triển. Hàng nghìn dự án lớn, nhỏ đã được triển khai, ghi dấu là những dự án, công trình trọng điểm như: KTT Vũng Áng (Kỳ Anh); dự án Mỏ sắt Thạch Khê; KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo (Hương Sơn); dự án Ngàn Trươi- Cẩm Trang… Theo đó, các nhà sản xuất cũng không ngừng thay đổi chiến lược hoạt động, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, ưu tiên nhất là vấn đề về đổi mới công nghệ, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng gần 2.000 doanh nghiệp lớn, nhỏ thuộc các lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, cái khó của các doanh nghiệp (cả nhà nước lẫn tư nhân) vẫn là chưa chủ động huy động được nguồn vốn từ các kênh khác nhau để đầu tư cho khoa học và công nghệ mà lệ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước. Nhìn chung doanh nghiệp, đặc biệt là DN vừa và nhỏ do yếu về năng lực tài chính nên sử dụng công nghệ lạc hậu; máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ cũ, mang tính chắp vá, không đồng bộ cộng với tay nghề công nhân; số doanh nghiệp tạo ra sản phẩm xuất khẩu trên địa bàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa thấy được vai trò của đổi mới và cải tiến công nghệ đối với sản xuất.Mặt khác, lực lượng lao động trong doanh nghiệp có trình độ công nghệ còn ở mức trung bình, đạt khoảng 32%, còn lại phần lớn là lao động phổ thông. Có những ông chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo có hệ thống về những kiến thức quản lý kinh tế, tin học; trình độ tay nghề của công nhân lao động còn ở mức thấp. Đó là nguyên nhân khiến hiệu suất lao động của rất nhiều doanh nghiệp tuy có tăng trưởng nhưng còn thấp. Như là một “đòn bẩy” giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thời gian qua, UBND tỉnh đã có nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ việc thực hiện đổi mới công nghệ. Cùng với việc ưu tiên bố trí ngân sách, tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tạo điều kiện để các DN từng bước đổi mới, nâng cao trình độ; không ngừng du nhập những công nghệ tiên tiến trong và ngoài nước áp dụng vào sản xuất. Nhờ thực hiện chính sách này, ngành KHCN đã hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới có hiệu quả một số công nghệ như: sản xuất hạt nhựa đa chủng loại, công nghệ sản xuất phôi thép đen, lưới B40 và dây thép gai, công nghệ composite sản xuất các vật liệu mới, công nghệ sản xuất gạch bằng lò đứng liên tục,....Bên cạnh đó, trong khuôn khổ chương trình hợp tác KH&CN, nhiều công nghệ mới được du nhập như: công nghệ sản xuất hoa phong lan, công nghệ chăn nuôi lợn siêu nạc, công nghệ nhân giống bò từ Thái Lan, công nghệ sản xuất ống betong, sản xuất gạch không nung. Gắn liền đó là việc tham gia các hội chợ công nghệ trong và ngoài nước, nhằm tạo điều kiện để các DN quảng bá sản phẩm của mình ra thị trường thế giới; hướng dẫn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá (đến tháng 9/2010 có 120 đối tượng SHTT được cấp bằng bảo hộ); xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 – 2000; xây dựng các chính sách nhằm phát triển xuất khẩu… Mặc dù số doanh nghiệp có khả năng đầu tư cải tiến, đổi mới công nghệ còn hạn chế nhưng có thể coi đây là những tín hiệu tích cực của các DN trong quá trình tìm đến những công nghệ mới, tiên tiến, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất. Và cũng là hướng đi cần thiết để các DN có thể vươn tới sự bền vững. Theo baohatinh

Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với giá thành phù hợp

Tóm tắt: Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, bộ mặt nông thôn cũng có nhiều đổi mới do có sự đóng góp của kinh tế các làng nghề. Bên cạnh thành tựu về kinh tế, làng nghề đã và đang gây ra các hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường.
Theo dự báo, ô nhiễm nước ở các làng nghề sẽ còn diễn biến phức tạp nếu không kịp thời và kiên quyết áp dụng các giải pháp quản lý và kỹ thuật. Bài báo này trình bày về một trong những giải pháp kỹ thuật xử lý ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến giấy, đó là "Sáng kiến xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với giá thành phù hợp với mức thu nhập trung bình của người dân". Kết quả đưa ra hệ thống xử lý nước với hiệu suất tốt, dễ vận hành, bảo quản và có giá thành rất phù hợp với túi tiền của người lao động ở các làng nghề chế biến giấy.
I. Giới thiệu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, môi trường của không ít làng nghề suy thoái trầm trọng và tùy theo loại hình sản xuất mà môi trường ở các làng nghề chịu sự ô nhiễm khác nhau. Hiện na, việc xử lý ô nhiễm môi trường nói chung và xử lý ô nhiễm môi trường nước nói riêng đã và đang được rất nhiều các nhà khoa học quan trâm nhằm đưa ra giải pháp thích hợp xử lý ô nhiễm.
Trong các công đoạn của công nghệ tái chế giấy, nước thải công đoạn ngâm, tẩy, nghiền trong tái chế giấy chiếm khoảng 50% tổng lượng thải, chưa nhiều hóa chất như xút, nước giaven, phèn, nhựa thông, phẩm màu, xơ sợi. Nước thải thường chứa nhiều bột giấy, lượng cặn có thể lên tới 300 - 600 mg/l.
Theo các kết quả khảo sát cho thấy, nước thải sản xuất tại các làng nghề có COD, BOD5, SS vượt TCVN từ 1,5 - 15 lần.
Trong số các làng nghề tái chế giấy có làng nghề Dương Ổ và Phú Lâm ở Bắc Ninh là hai làng nghề có quy mô sản xuất lớn. Tổng khối lượng nước thải lên tới 3500 m3/ngày. Hàng ngày đã thải vào nguồn nước mặt khoảng 1.450 - 3000 kg COD và 3000 kg bột giấy.
Tại các làng nghề tái chế giấy này, công nhân và người lao động bị mắc các bệnh về hô hấp, bệnh ngoài da và thần kinh rất cao. Ví dụ như tại xã Phong Khê ( Bắc Ninh), tỷ lệ người mắc bệnh hô hấp ngoài da, đường ruột có xu hướng tăng nhanh, nếu như năm 2001 mới chỉ có khoảng 200 người mắc bệnh thì năm 2004 đã có gần 400 người. Đây thực sự là hồi chuông báo động về sức khỏe người dân làng nghề.
Trước thực trạng như vậy, việc các nhà khoa học, các chuyên gia phải đi vào nghiên cứu các phương án kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân làng nghề chế biến giấy, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường là rất cần thiết. Nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn PGS. TS Trần Hồng Côn đã đề xuất và đưa ra được một hệ thống xử lý nước thải mini tại làng nghề chế biến giấy, với hiệu suất xử lý cao, giá cả vận hành và bảo dưỡng phải chăng dựa trên phương pháp sinh học.
II. Quy trình công nghệ
Các loại nước thải của làng nghề tương đối đa dạng. Đối với nước thải làng nghề chế biến giấy (chủ yếu là tái chế giấy để làm giấy vệ sinh), dòng dịch đen không nhiều trong dòng thải chung, nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm đề tài, cố vấn là PGS.TS Trần Hồng Côn đã đề xuất thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải mini của làng nghề giấy như sau:
Hình 1. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải mini của làng nghề gỗ và giấy.
Ở đây có thể chia thành 3 trường hợp khác nhau:
+ Trường hợp 1: Nước thải không có màu: Nước thải từ dây chuyền chế biến giấy chưa qua xử lý được đưa vào bể khuấy I tại đây ta cho vào chất để trung hòa kiềm là axit H2SO4 và một số chất xúc tác khác. Tại đây nhờ lực ly tâm và trọng lượng nên phần chất thải rắn được lắng xuống và tháo ra ngoài, phần nước được tràn qua bể keo tụ II. Tại bể II những chất rắn lơ lửng (SS) và chất hữu có dễ phân hủy BOD được keo tụ lại và phần nước được tràn sang bể lắng III. Tại bể lắng III bùn sơ sợi được tháo ra để tái sử dụng còn nước tháo ra ao, hồ đạt tiêu chuẩn B theo QCVN 14: 2008/BTNMT.
+ Trường hợp 2: Nước thải có màu thì tại bể I ta cho thêm cacbon hoạt tính để hấp phụ màu và một số phụ gia khác và quá trình tương tự như trên.
+ Trường hợp 3: Nước thải có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao) thì ta cần có thêm sơ đồ sau đây để tiếp tục xử lý sau khi ra khỏi bể III:
Hình 2: Sơ đồ xử lý nước thải bổ sung khi có màu và hàm lượng tinh bột cao (COD cao)
Tại bể IV ta bổ sung vi chất và sục không khí, tại đây hàm lượng tinh bột sẽ bị xử lý sau đó nước tiếp tục được tràn vào bể V. Tại bể V bùn vi sinh lắng xuống dưới và được thải ra ngoài, một phần nước dưới đáy được bơm quay vòng về bể vi sinh hiếu khí IV. Nước sau bể V thải ra ngoài đạt tiêu chuẩn B.
Điều quan trọng là các vật liệu và thiết bị trên đây có thể xem là đơn giản và rẻ tiền nhất trong các phương án công nghệ xử lý nước thải ở dạng mini, người dân có thể tự làm được dưới sự hướng dẫn của nhóm chuyên gia. Mặt khác, nhưng thiết bị này có thể làm bánh xe để di chuyển cơ động khi thay đổi mặt bằng hoặc thay thế dễ dàng. Loại vật liệu để chế tạo các bể mini cơ động này có thể là thép CT3 theo nguyên tắc xếp chồng, hoặc có thể xây bể bằng gạch trong trường hợp diện tích mặt bằng lớn và hệ thống xử lý cố định. Đồng thời trong trường hợp muốn tiết kiệm chi phí để chế tạo có thể hợp khối các bể xử lý lại với nhau rất đơn giản mà lại đạt hiệu quả về mặt kinh tế.
Hiện nay, sáng kiến áp dụng hệ thống này cho việc xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt trong đề tài cấp Bộ mang tên "Nghiên cứu thiết kế và chế tạo hệ thống đồng bộ xử lý nước thải, bụi và khí thải cho các làng nghề chế biến gỗ, giấy" do Tiến sĩ Vũ Chí Cường làm chủ nhiệm và dự kiến sẽ áp dụng xử lý cho các cơ sở chế biến giấy tại làng nghề Đào Xá (Bắc Ninh).
III. Kết luận
Tại các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa học. Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, người lao động thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt và hóa chất, nguy cơ tai nạn lao động cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm do chất thải sản xuất không được xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Sức khỏe người lao động và dân cư đang bị đe dọa do ô nhiễm môi trường. Bệnh tật phổ biến tại các làng nghề là viêm phế quản - phổi, dị ứng ngoài da, đau mắt, đau lưng, đau cột sống, đau bụng hội chứng dạ dày, phụ khoa ... Việc đưa ra quy trình công nghệ xử lý nước thải làng nghề chế biến giấy với quy mô nhỏ sẽ góp phần giúp giảm thiểu ô nhiễm tại đây, cải thiện một cách đáng kể chất lượng cuộc sống của người lao động. Việc lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng một hệ thống mini như thế này không phải quá khó đối với mỗi người dân bình thường. Ngoài ra chi phí đầu tư cho mỗi hệ thống không hề đắt, rất phù hợp với túi tiền của người dân mà hiệu suất xử lý không hề thấp. Trong tương lai gần, nếu hệ thống này được áp dụng một cách rộng rãi tại các làng nghề chế biến giấy sẽ góp một phần không nhỏ vào việc cải thiện chất lượng môi trường nước tại các làng nghề truyền thống này.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2008, "Môi trường làng nghề Việt Nam", Bộ Tài nguyên và Môi trường.
2. Đặng Kim Chi, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Lệ Minh, Làng nghề Việt Nam và Môi trường - NXB KHoa học và Kỹ thuật, 2005.
3. Trần Hồng Côn, Đồng Kim Loan, Công nghệ xử lý khí thải, NXB Khoa học kỹ thuật, 2009.
4. Vũ Thị Thanh Hương, Nghiên cứu các biện pháp cải thiện môi trường cho làng nghề tái chế giấy, Dự án hợp tác với Cộng hòa Séc và Canada, 2007...

Tác giả: TS. Vũ Chí Cường - KS. Trần Ngọc Hương. Viện Bơm và Thiết bị Thủy lợi. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí "Tài nguyên nước"